Đức Tin và Văn Hóa
Chúng
ta đang sống trong một thời kỳ mới, giữa một thế giới đầy biến động. Xã hội con
người, dần bước tới một kỷ nguyên tươi sáng, trong mọi lĩnh vực: khoa học, xã hội...
. Con người hôm nay, đặt niềm tin vào khoa học, bởi sự phát triển vượt bậc của
nó. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ, con người cảm thấy hoang mang, niềm tin giữa
con người với nhau, giữa con người và Thượng Đế. Con người được một nền văn hóa
hiện đại, cung phụng cho một cuộc sống sung túc, đầy đủ về mọi mặt, bởi vậy, một
số người dần trở nên vô cảm và lãnh đạm trước mọi biến cố thời cuộc và của
chính mình. Người ta đón nhận mọi thứ một cách hời hợt, ngay cả trong vấn đề đức
tin của mình với Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II đã nói rằng:
“đức tin mà chưa biến thành văn hóa là đức tin chưa thực sự suy tư, chưa đón nhận
một cách chân thành”.
Sống
trên trần gian này, con người luôn khát khao đi tìm Đấng Tạo Hóa. Bởi vì, mọi
thực tại ở trần gian, chưa bao giờ làm con người được no thỏa và đạt tới hạnh
phúc trọn vẹn. Vì thế, giữa vũ trụ mênh mông này, con người được Thiên Chúa ban
tặng cho một đức tin, để nhờ đức tin con người được nhận biết Thiên Chúa và
chân lý của Ngài. Vậy, đức tin là “nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào
Thiên Chúa và những gì Ngài đã mặc khải cho chúng ta và những gì Hội thánh dạy
chúng ta tin, vì Thiên Chúa là chính chân lý. Nhờ đức tin, con người phó thác bản
thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế, người tin tìm biết và tìm thi
hành thánh ý của Ngài vì, “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6)” (SGLHTCG
368). Trong mọi thời đại, con người có một nền văn minh, văn hóa khác nhau. Qua
mỗi thời đại, hậu thế sẽ được kế thừa nền văn hóa tốt đẹp mà cha ông để lại. Vậy,
văn hóa là gì? Thánh Công đồng Vantican II cũng đã định nghĩa rằng: “văn hóa là
tất cả những gì con người dùng để trao đổi và phát triển các năng khiếu đa điện
của thể xác và tâm hồn; cố gắng chế ngự trái đất bằng tri thức và hành động;
làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình và đời sống chính trị trở nên nhân đạo
hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết diễn tả, thông truyền
và bảo tồn các công trình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bảo của các thời
đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn”.
Sống
trong lòng Giáo hội, ngày từ lúc được sinh ra, ta được mời gọi đón nhận đức tin
qua bí tích rửa tội. Bởi vậy, đức tin là món quà Thiên Chúa ban tặng cho ta, đức
tin không phải là một cái gì đó để ta cố gắng bắt lấy. Khi thánh Phê-rô tuyên
xưng đức Giê-su, “Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Khi
ấy, Chúa Giê-su đã khẳng định rằng: “không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều
đó, nhưng chính Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Ngay từ buổi sơ khai, Thiên Chúa đã có ý định
ban cho con người một nên văn hóa, theo ý chí tự do của họ. Thiên Chúa đã chọn
cụ Áp-ra-ham là một con người cụ thể, để xây dựng và phát triển thành một dân tộc.
Ý định của Thiên Chúa, muốn cho con người xây dựng một nền văn hóa tùy ý mình một
cách rõ nét hơn, khi Ngài ngăn cản con người xây dựng tháp Babel “nào Ta xuống
và làm cho tiếng nói của chúng bị xáo trộn” (St 11, 7). Vì thế, đức tin và văn
hóa là ân sủng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người.
Sau
khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã mời gọi họ cộng tác và tiếp tục công
trình sáng tạo của Ngài, “hãy sinh sôi nảy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất
và thống trị khắp mặt đất”. (St 1, 28). Dù sau đó, con người phạm tội với Thiên
Chúa, bị Ngài đuổi ra khỏi vườn địa đàng, nhưng Ngài vẫn cho họ khả năng lao động
để tạo ra những thứ nuôi sống mình một cách vất vả hơn. Theo dòng lịch sử thời
gian, cho chúng ta thấy, con người đã sáng tạo những công cụ thô sơ cho tới các
công cụ tân tiến để phục vụ cuộc sống của mình. Có lời chép rằng: “người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời miêng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,
4). Thật vậy, sự sống của con người không chỉ cơm no, áo ấm là đủ, nhưng còn bởi
các giá trị tinh thần khác nữa. Bởi vậy, ở mọi thời, con người đều phát minh ra
các bộ môn nghệ thuật để phục vụ cho đời sống tinh thần của mình. Con người đã
sáng tạo ra, các làn điệu dân ca, các vũ khúc, những điệu nhạc... những môn nghệ
thuật đó, ảnh hưởng trực tiếp bởi lối sống thường ngày của họ. Thật vậy, nền
văn hóa đó không đi ngược lại với đức tin của con người vào Thiên Chúa. Bởi vì,
Thiên Chúa ban cho con người lí trí để phân biệt và hành động theo lương tâm của
mình. Và đức tin là một hành vi nhân linh, tức là con người tin và Thiên Chúa
và gắn bó với những chân lý do Ngài mặc khải không đi ngược lại với tự do và
trí khôn của con người. Thực tế đã cho chúng ta thấy rằng, các bộ môn văn hóa
hay lối sống văn hóa tốt đẹp của con người là cách thức để mỗi người biểu thị đức
tin của mình. Đức tin là một hành vi nhân linh, bởi vậy, đức tin và văn hóa
luôn song hành với nhau để hướng tới Thiên Chúa.
Trong
đức tin, con người được tự do đón nhận Thiên Chúa. Thiên Chúa ban đức tin cho
con người để mỗi người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý. Qua dòng lịch sử
thời gian của Giáo hội ta thấy rằng, Giáo hội luôn mời gọi con cái trong gia
đình nhân loại đến với mình, và Giáo hội không bao giờ dùng những cách thức để
chiêu dụ người ta. Bởi vậy, trong đời sống đức tin, mỗi người sẽ có cách riêng
để sống và thể hiện đức tin của mình. Cũng vậy, trong đời sống văn hóa, tuy rằng
có những con người cùng một dân tộc, cùng một ngôn ngữ, nhưng mỗi người sẽ có
nét văn hóa riêng. Con người là một tổng hòa văn hóa. Trong kiến trúc nghệ thuật,
có người thích thế này, người thích thế khác. Trong quan niệm sống, cùng một vấn
đề nhưng người này có quan niệm khác người kia, và còn nhiều lĩnh vực khác nữa,
mỗi người sẽ có một nét riêng cho mình. Tuy vậy, mọi thứ phải được chiếu rọi dưới
ánh sáng Tin mừng của Thiên Chúa, vì lệ thuộc vào Thiên Chúa làm cho con người
được tự do hơn. Thật vậy, đức tin là một hành vi tự do để mỗi người, diễn tả
nét văn hóa riêng của mình.
Nền
khoa học của con người đang ở giai đoạn phát triển, nhờ khoa học con người đã đạt
được những thành tựu to lớn. Ngày nay con người có thể bay tới cung trăng, lặn
xuống đáy biển sâu, và người ta cũng đã sáng chế ra nhiều thiết bị, máy móc hiện
đại để phục vụ cuộc sống con người. Các lĩnh vực nghệ thuật cũng bước sang
trang sử mới, các dòng nhạc khác nhau ra đời để phục vụ cho mọi lứa tuổi và sở
thích riêng của từng người, nghệ thuật kiến trúc xây dựng... cũng đảm bảo được mọi
nhu cầu của mọi người. Thật vậy, trong một nền văn hóa đa dạng như thế, một nền
văn hóa, hầu như có thể thỏa mãn được niềm khao khát của con người, làm cho người
ta nghĩ rằng: “đức tin không còn chổ đứng trong nền văn hóa hiện đại”. Tuy
nhiên, càng khám phá ra sự văn minh, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Thánh
Phao-lô cũng đã khẳng định rằng: “những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa
thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ” (Rm 1,
19). Khi nhà bác học Issac Newton khi quan sát các hành tinh và dải ngân hà đã
reo lên rằng: “tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi”. Hay nhà toán
học Justus-von Liebig đã nói rằng: “sự vĩ đại và trí khôn vô tận của Đấng Tạo
Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút ra ý tưởng của mình từ cuốn
sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên”. Trong các lĩnh vực văn hóa khác,
dáng dấp của đức tin cũng được tỏ lộ và qua những nét đẹp của văn hóa người ta
thể hiện đức tin của mình ở trong đó. Bởi vậy, đức tin đi vào mọi ngõ nghách của
đời sống con người và trở thành một nền văn hóa.
Chúa
Giê-su, một con người mang nền văn hóa bởi dân tộc mình. Khi xuống thế làm người,
Đức Giê-su được chọn sinh ra trong dòng dõi vua Đa-vít, như lời của sứ thần
Giáp-ri-en đã loan báo rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng
vua Đa-vít, tổ tiên Người” (Lc 1, 32). Chúa Giê-su được sinh ra trong gia đinh
Nagiaret, thân mẫu người là đức Maria, và có thánh Giuse là cha nuôi của Người.
Chúa Giê-su được sinh hạ tại Bê-lem, miền Giu-đê, trong Tin mừng cũng đã diễn tả
rằng: “phần người, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thánh phố nhỏ
nhất của Giu-đa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
(Mt 2, 6). Thật vậy, đức Giê-su là Thiên Chúa, nhưng khi mặc lấy thân phận con
người, Ngài cũng có một tổ quốc, một dòng tộc, một gia đình và một ngôn ngữ. Bởi
vậy, đức Giê-su cũng được dạy dỗ và ảnh hưởng bởi nền văn hóa thời đó. Tuy
nhiên, khi đứng trước một nền văn hóa còn thiếu yêu thương, thiếu bác ái, nhưng
Ngài không hề có ý đinh hủy bỏ đề xây dựng lại, nhưng Ngài đã kiện toàn nền văn
hóa đó. Trong Tin mừng Thánh Mát-thêu cũng đã diễn tả rằng: “Thầy đến không phải
để bãi bỏ nhưng để kiện toàn” (Mt 5, 17). Chúa Giê-su mang nền văn hóa của dân
tộc mình, và Ngài đón nhận một cách chân thành vì Ngài tôn trọng sản phẩm văn
hóa của con người.
Môi
trường sống của con người hôm nay, thật giả lẫn lộn. Lịch sử con người, đã hun
đúc được nhiều nền văn hóa tốt, mang lại các giá trị nhân văn cho con người. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng xuất hiện biết bao nền văn hóa xấu đang đầu độc thế hệ
con người hôm nay. Người ta biểu tình để được hệ thống pháp luật cho phép phá
thai, sử dụng ma túy, ăn chơi trác táng được coi là nét văn hóa mới của giới trẻ.
Con người đề cao những giá trị vật chất, chạy theo chủ thuyết vô thần để loại bỏ
Thượng Đế. Văn hóa mặc kệ người khác, chỉ cần mình có lợi là đủ, vì thế, thiên
nhiên bị tàn phá, tài nguyên khoáng sản bị khác thác quá mức cho phép. Nền văn
hóa đó đã đưa đến hậu quả rất nghiêm trọng cho con người; thiên nhiên lên tiếng,
thiên tai lũ lụt bất thường xảy ra khắp nơi. Bị tiêm nhiễm bởi nền văn hóa tiêu
thụ, con người dần trở nên vô cảm với nhau và với chính mình. Con người cảm thấy
lo âu về chính mình, đức tin bị trống rỗng. Người ta đi tới nhà thờ, chùa chiền,
hay các cơ sở tôn giáo khác để cầu nguyện với mục đích mong sao trời ban cho
mình có được nhiều của cải, địa vị thăng tiến. Con người dần quên mất đi căn
tính đích thực của mình đó chính là tâm hồn. Khi lấy đức tin ra để sống người
ta cảm thấy hoang mang với chính đức tin của mình,đức tin đã được thụ huấn ngày
hôm đó. Người ta không hiểu đức tin của mình đang đi tới đâu, và đức tin của
mình là gì? Thực tại đau thương đó đang xảy ra, bởi vì, người ta không chịu dừng
lại cuộc sống, cơm gạo áo tiền để suy tư về những điều thánh thiêng mình đã được
lãnh nhận.
Người
Công Giáo Việt Nam khi nhắc đến, truyền giáo và hội nhập văn hóa với đức tin,
chắc ai cũng nhớ vị truyền giáo, cha Đắc Lộ. Để truyền giáo ở một đất nước xa
xôi, khác văn hóa, chữ viết và những tập tục khác, cha Đắc Lộ đã không quản ngại
vượt bao khó khăn để truyền rao đức tin cho các tín hữu nơi đây. Khi tới Việt
Nam, Ngài đã bỏ ra rất nhiều thời gian để học ngôn ngữ, tìm hiểu văn hóa. Và
ngài cũng noi gương Chúa Giê-su, luôn tôn trọng văn hóa của con người bản địa,
và dùng nét đẹp văn hóa của họ để cho họ nhận ra Thiên Chúa nơi chính nền văn
hóa đó. Cha Đắc Lộ luôn tôn trọng và giữ phong tục tập quán của người Việt Nam,
đồng thời đưa ra những thích ứng phù hợp. Những tập tục dị đoan của ba Ngày tết
Việt Nam được thay bằng nghi thức kính Ba Ngôi Thiên Chúa. Thay vì cắm cây nêu,
Cha đã dựng cây Thánh Giá. Những nghi lễ Công Giáo được tổ chức mang màu sắc
phù hợp với tâm tình Việt Nam hơn. Ngày nay chúng ta còn giữ lại một số truyền
thống như làm phép nến, dùng cành ô-liu trong ngày lễ Lá, ngắm Thương Khó Chúa
Giêsu vào mùa Chay. Cha khuyến khích giáo hữu sáng tác thơ nhạc, giới thiệu
Thiên Chúa cho người khác. Để làm được như vậy, cha Đắc Lộ đã suy tư rất nhiều
về đức tin của mình, và chính ngài cũng đã đón nhận đức tin của mình một cách
chân thành.
Đức
tin và văn hóa không đối lập nhau, nhưng luôn song hành cùng nhau. Bởi vì, đức
tin và văn hóa đều xuất phát từ ý định của Thiên Chúa; đức tin là một hành vi
nhân linh: những chân lý của Thiên Chúa không đi ngược lại với trí khôn và tự
do của con người; đức tin là một hành vi tự do, con người được tự do suy tư để
biến đức tin ấy trở thành nét văn hóa của dân tộc mình. Và, đức tin cùng với
văn hóa đi vào mọi ngõ nghách của đời sống con người. Đức tin và văn hóa của
con người luôn được chiếu soi qua lăng kính của ánh sáng Tin mừng, bởi vậy, mọi
điều tốt đẹp đều đến từ Thiên Chúa. Vậy, đức tin phải biết suy tư để làm phong
phú hóa, và phải đón nhận một cách chân thành để có lòng mến.