Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016

Thư gửi người tù của Đức Kitô
Kính chào chị!
Lời đầu tiên kính chúc người tù của Đức Kitô được luôn an bình, mạnh khỏe và luôn được hồng ân trong Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Vậy là đã gần đến ngày kỷ niệm đức lang quân của chị giáng sinh, hôm nay trong bầu không khí của mùa vọng gợi cho em nhớ lại kỷ niêm hôm nào chị còn học ở đây, ngày đó chúng ta cùng tất bật chuẩn bị cho ngày Chúa giáng sinh với những điệu múa tiếng nhạc cùng hòa chung vào không khí chuẩn bị mừng Chúa giáng sinh. Chị à mùa vọng suốt quãng đời sinh viên hầu như đối với chị là một mùa vọng hối hả và tất bật để chuẩn bị cho một mùa giáng sinh trọn vẹn. Chúng ta biết rằng mùa vọng là mùa của trông đợi, mùa mà như cả đất trời hòa chung với lòng người cùng mang chung một màu có chút u sầu ũ rũ. Nhìn cảnh sắc thiên nhiên cho đến cõi lòng trong bản thân ta, ta có thể cảm nhận được mùa vọng năm nào Thiên Chúa Ngài cũng hiện tại hóa lại hoạt cảnh trong đợi của dân Chúa ngày xưa, ngày xưa dân Chúa u sầu vì đang mỏi mòn trong đợi Chúa đến vậy hôm nay chúng ta có lí do nào để u sầu không? Có chứ, Chúa đã đến cách đây hơn hai ngàn năm rồi nhưng Chúa đã đến thực sự trong chính cõi lòng ta chưa? Ta đã cảm nhận được Chúa đang ngự giá đến trong lòng ta chưa? Hôm nay em viết thư nhưng có chút diễn giải dài như vậy là bởi vì hôm nay em muốn nói với chị một niềm vui ngoài những nỗi buồn đó. Mùa vọng đúng là dường như mọi thứ đề chung một cảnh u sầu tuy nhiên chúng ta có nhiều lí do để vui lắm chứ. Thánh Phaolo trong thư gửi các tín hữu Ngài kêu gọi con cái của Ngài rằng “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy là như vậy đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô.” (Tx 5, 16-18). Vậy là chúng ta có lí do để vui rồi, lí do chính đáng nhất đó là chúng ta hãy vui mừng mãi trong Chúa. Chị à Thánh Phaolo đã kêu gọi chúng ta hãy vui mừng luôn mãi vậy thì chắc là không có gì để làm chị buồn nữa rồi đúng không? Dẫu biết rằng đường đời nhiều lắm chông gai, con đường chị đi như mù mịt phía trước, cũng biết rằng gia đình mình nhiều lúc sống gió tuy nhiên những điều đó không thể làm chị buồn được đúng không? Em luôn mong mỏi như thế, vì trong Đức Kitô đâu có lí do để chị buồn, biết rằng giữa những sóng gió của cuộc đời đôi khi chị chỉ biết nhìn lặng vào trào tuôn nước mắt nhưng đó chỉ là chị mệt và chị muốn tựa vào lòng Đấng đã yêu thương và gọi mời chị. Đúng không chị?
Chị à lối đi nào cũng có chông gai, con đường nào cũng ngoằn ngèo. Không có lối đi nào mà con đường thẳng tắp được. Trong tâm tình của mùa vọng hôm nay em muốn nhắn gửi đến chị hãy vui luôn mãi và hãy cười trong Chúa trong mọi hoàn cảnh để mỗi ngày đời chị là chứng nhân sống động cho những người sầu khổ những người ốm đau, những người bệnh tật và đặc biệt khi chị cười trong những nỗi vất vả và khó khăn thì các linh hồn dưới luyện ngục họ thấy thế họ cũng vui mừng với chị. Chúc chị luôn được bình an và nhận được nhiều ơn lành của Chúa giáng sinh.

Em trai kính gửi

Fx: Phạm Thanh Cảnh

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

CAN ĐẢM ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Con người được sinh ra vốn là để làm chủ. Tư cách làm chủ của con người được thể hiện trên phẩm giá và khả năng củamình. Quả vậy, chúng ta không hề xem một sinh vật nào trên trái đất này là trên mình, hay thậm chí là ngang hàng với mình cả. Con người không những có một cơ cấu thể lý phức tạp, nhưng còn có một đời sống tâm linh vô cùng sâu sắc. Con người không chỉ làm chủ vạn vật chung quanh, nhưng còn làm chủ cả những bản năng của mình. Dù chẳng biết mình từ đâu mà ra, nhưng trực giác của con người luôn mách bảo cho con người biết về địa vị cao cả của mình, địa vị cai quản mọi sự trong tư cách làm chủ. Thế nhưng, trước sức tấn công của sự dữ hoành hành, con người dường như đã dần dần đánh mất đi tư cách cao quý ấy, để rồi tự hạ nhân phẩm của mình xuống, biến mình thành nô lệ cho nhiều điều. Một đời sống ung dung, tự tại không còn nữa! Suốt cả một cuộc đời, con người phải sống trong nỗi buồn phiền của một kiếp lưu vong, tha hương, lạc lõng với Tạo Hóa, với người khác và với cả chính mình. Bao nhiêu điều xấu xa tồi tệ cứ thay nhau ập xuống trên con người, như cố đè bẹp họ. Họ đã cố gắng dùng ý chí để vùng dậy, cố gắng nghĩ đến điều tích cực, cố gắng hy vọng những điều tốt đẹp nhưng dường như thế lực sự dữ vẫn chẳng buông tha. Họ muốn hướng thiện, nhưng những rào cản ngăn lối vẫn cứ xuất hiện trước mắt. Lòng họ khao khát sống điều công chính, nhưng bao luồng tư tưởng kéo đến, khiến họ chẳng biết đâu là điều công chính thực sự cần phải bước theo. Có khi họ biết rõ một điều gì đấy là không tốt, nhưng cảm xúc lại cứ níu kéo họ, khiến họ không buông bỏ được. Tồi tệ lại chất thêm tồi tệ! Cuộc sống là một chuỗi ngày dài những mệt mỏi vì phải đấu tranh và chọn lựa. Họ quay quắc trong một mớ những hỗn độn của tình cảm và lý trí mà không biết phải làm gì, phải hành xử sao để lòng được hưởng bình an. Ta có một thói quen xấu nào đấy. Ta biết rõ là xấu. Ta biết là hành vi ấy không mang đến cho ta niềm hạnh phúc thanh cao và lâu bền. Ta biết là thói quen ấy không làm cho cuộc sống của ta được triển nở và an vui. Ta biết là nó sẽ đục khoét ta, làm hại sức khỏe ta, phá vỡ tương lai của ta. Ta cũng đã cố gắng nhiều lần để gạt bỏ nó, nhưng
vẫn không sao chừa được. Cái cảm giác lâng lâng nó mang lại có một sức quyến rũ đến lạ kỳ. Ta nhìn thấy rõ bộ mặt đen tối của nó đang hả hê cười nhạo mình, ta căm phẫn nó đến tột độ. Ta gồng mình lên để chống chọi với nó, nhưng rồi ta lại buông lỏng mình khi nghĩ đến cảm giác thăng hoa mà nó mang lại. Cảm giác mơ ảo qua đi, ta hối hận vì những gì mình làm, ta thấy day dứt lương tâm, ta trách mình sao yếu đuối và tội lỗi thế. Ta hối tiếc vì mình đã phản bội lại tình yêu mà Tạo Hóa và những người thân đã dành cho mình. Nhưng rồi, mọi chuyện vẫn cứ đâu vào đấy. Bất chấp lý trí có mách bảo ta ra sao, bất chấp lương tri có thôi thúc ta thế nào, ta vẫn cố tự an ủi mình bằng những lý lẽ do mình tạo ra và tiếp tục buông trôi cuộc sống, chấp nhận làm nô lệ cho thói quen xấu ấy. Ta có một mối tương quan nào đấy. Ta biết rõ là tương quan này chẳng đi đến đâu. Ta biết là mình sai khi thiết lập mối tương quan này. Tương quan mờ ám này của ta là một kiểu tương quan vụng trộm lén lút. Nó phá vỡ những kỷ cương và quy luật của cuộc sống. Nó làm hại không những cuộc sống của mình, mà còn của người kia và nhiều người khác nữa. Ta điên cuồng nghe theo xúi giục của cảm xúc mà bất chấp lý lẽ, bất chấp luật lệ, bất chấp tất cả. Có lúc ta cũng muốn chấm dứt tương quan này, nhưng sự ích kỷ của ta cứ trồi lên và làm cho ta không đủ can đảm để làm điều ấy. Ta sợ mình đau, ta sợ người kia đau. Ta không dám hy sinh, không cố gắng kiềm chế sự nông nổi và nhỏ mọn của ta vì lợi ích tốt đẹp của cả hai. Ta sợ khi nghĩ đến tương lai vì nó tối tăm và mù mịt, không lối thoát. Nhưng ta không dám dứt khoát để giải thoát cho mình và để tương lai có được một tia sáng. Ta cứ sống vật vờ trong nỗi buồn và nỗi lo, rồi bất chấp mọi sự, để mặc cho đời cứ ra sao thì ra, đến đâu hay đến đó. Ta hy vọng trong vô vọng một phép màu nào đó xảy đến, giải quyết dùm ta tương quan rắc rối này mà không làm khổ ai, không làm ai đau, không làm ai nhức nhối. Gìn giữ một tương quan xấu khiến ta phải dối gạt người khác, phải sống trong phập phồng lo sợ bị phát giác. Ta phải lấp liếm và xao lãng đi trách nhiệm của mình. Rốt cuộc, ta đánh mất chính mình, đánh mất tương lai của mình và làm hại biết bao con người khác nữa, chỉ vì ta mù quáng và không dám can đảm đứng lên. Luôn có một lực đẩy bên trong con người chúng ta, thúc đẩy chúng ta hướng về điều thiện hảo. Dù tội lỗi và bao sự xấu dưới dạng những thói quen hay tương quan không tốt cứ kéo đến bủa vây ta, tiếng gọi hướng về Chân Thiện Mỹ vẫn cứ trồi dậy trong ta. Cuộc chiến giữa tiếng gọi của Chân Lý và lôi kéo của sự dữ luôn diễn ra trong ta, và chính nó làm cho chúng ta mệt mỏi, vì lúc nào cũng phải phân định, phải suy nghĩ, phải chọn lựa. Ai trong chúng ta cũng biết rằng, chỉ khi nào ta chọn điều thuộc về Chân Lý thì lòng ta mới bình an và hạnh phúc lâu bền. Còn những cảm giác hưng phấn và ảo tưởng chỉ là một thoáng qua của mây gió. Ta cần can đảm đứng lên, trở nên mạnh mẽ, để khảng khái đối đầu, để chấp nhận chịu đau, một nỗi đau tất yếu phải có để hướng về hạnh phúc. Sẽ chẳng có một hạnh phúc đích thực nào được thủ đắc mà trước đó, người ta không trải qua những khó khăn, dằn vặt. Người nào ngại khổ, sợ đau thì sẽ không bao giờ đến được chốn bình an, thanh thản. Không chiến thắng được những xúi quẩy và thúc đẩy thấp hèn, còn lâu ta mới tìm thấy được nguồn yên ấm. Nhưng để có thể thoát ra khỏi được sự kiềm kẹp của tất cả những lôi kéo xấu xa ấy, ta phải có sự dứt khoát, phải can đảm từ bỏ, phải cố gắng vượt qua. Người không chiến thắng được bản thân, thì sẽ chẳng làm nên được điều gì cả. Làm chủ chính mình là điều điện đầu tiên để ta có thể làm chủ tất cả những điều khác. Thế nên, để có được hạnh phúc, ta cần phải can đảm là vậy!

(trích từ sách truy tìm hạnh phúc)

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

Đề ra: “Hãy trình bày sự hiểu biết của mình và khai triển câu nói trong thông điệp Ánh sáng Đức tin của Đức Giáo hoàng Phanxicô ngày 29/6/2013: “Được đan kết cách tuyệt diệu, đức tin, đức cậy, đức mến là động lực của đời sống Kitô hữu hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa”.
Bài Viết
Mỗi con người được sinh ra là quà tặng vô cùng quý giá của Thiên Chúa là một tiến trình không ngừng nghỉ hướng về Ngài, Đấng là cội nguồn, ý nghĩa và là động lực sống cho mỗi người, ý thức được cội nguồn sinh ra và cùng đích hướng tới Thánh Âu-Tinh cũng đã khắc khoải “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”. Tuy nhiên để hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa không phải là điều dễ dàng mà phải có động lực thúc đầy nơi Thiên Chúa. Để xác định động lực trên trong thông điệp ánh sáng Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã đưa ra một suy tư sau: “Được đan kết cách tuyệt diệu, đức tin, đức cậy, đức mến là động lực của đời sống Kitô hữu hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa”.

Khi ý thức được sự hiện diện của mình trên trần gian này thì con người đã có niềm tin sự cậy trông và lòng mến vào Đấng đã sinh mình ra từ hư vô, vậy đức tin, cậy, mến là gì? Theo giáo lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa, Đức Tin là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta trao phó trọn bản thân và đời mình cho Thiên Chúa, cùng đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải mà Hội Thánh truyền lại cho ta. Đức Cậy là ơn Thiên Chúa ban giúp ta dựa vào sức mạnh Chúa Thánh Thần mà vững lòng mong đợi hạnh phúc Nước Trời Chúa Giêsu đã hứa ban. Đức Mến là ơn Thiên Chúa ban, giúp ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và lại vì Chúa mà yêu thương mọi người như chính bản thân.
Trong tiến trình hằng ngày của cuộc đời với biết bao nhiêu lo toan trong cuộc sống nhiều lúc con người như bị dìm xuống dòng nước của cuộc đời, những lúc đó con người hầu như hết hy vọng bám víu vào một người hay một thế lực nào đó ở trần gian, sự tuyệt vọng sự cô đơn bao trùm lấy toàn thể con người từ thân xác cho đến cả tâm hồn, khi đó động lực sống của con người hầu như không còn nữa những hy vọng những ước nguyện và con đường phía trước hầu như mù tối đối với họ. Những lúc như thế đối với mỗi một người Kitô Hữu thì đó như là một kinh nghiệm để đạt tới sự hiệp thông nơi Thiên Chúa, khi ấy con người dùng động lực của mình là niềm tin để kêu lên Thiên Chúa cứu vớt họ, trong thư gửi tín hữu Roma Thánh Phaolo cũng đã dạy chúng ta hãy dùng niềm tin vào Thiên Chúa là cứu cánh cho cuộc đời vì “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1, 16). Cũng trong thư gửi tín hữu Do Thái Thánh Phaolo đã an ủi khuyên nhủ chúng ta hãy có một niềm tin mạnh mẽ và Thiên Chúa vì “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt 11, 1). Khi con người đã có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng trông cậy duy nhất của con người, vậy phải chăng với niềm tin thôi thì con người đã thực sự kết hiệp với Thiên Chúa? Chỉ tin thôi mà không cần trông cậy thì sự kết hiệp đó đã trọn vẹn chăng? Quả thế nhìn lại lịch sử đời mình với những gì đã xảy, đặc biệt có những lúc ta ngồi một mình tâm sự với Chúa cố gắng kết hiệp với Ngài để nói chuyện về niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống những lúc như vậy ta phải dùng chính niềm tin đã được Thiên Chúa ban phát để kết hiệp với Ngài nhưng chỉ dùng niềm tin thôi thì sự kết hiệp đó, cuộc nói chuyện đó khô khan và nhàm chán biết bao khi ta không bỏ chút gia vị vào đó là niềm cậy trông và cũng là động lực của chúng ta hướng tới Thiên Chúa. Cuộc nói chuyện nào cũng có sự nhàm chán nếu ta không biết kiên nhẫn chờ đợi và lắng nghe đặc biệt khi con người nói chuyện với Chúa thì dễ chán và bỏ cuộc hơn nữa nếu ta không có niềm cậy trông và không kiên nhẫn mong đợi sẽ được nghe tiếng nói của Ngài trong chính tận sâu thẳm của tâm hồn thì ta không thể kết hiệp được với Ngài trọn vẹn hơn. Thậy vậy trong thư gửi các tín hữu Thánh Phaolo Tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (Tx 1, 3).Thánh Phaolo Tông đồ là người kết hiệp thâm sâu với Chúa, Ngài cũng biết rõ ai cũng sẽ gặp khó khăn khi cố gắng kết hiệp với Chúa nên đã khuyên răn các tín hữu một cách tỉ mỹ là đã có đức tin thì cũng cần phải có sự kiên nhẫn trông đợi để chúng ta được chìm đắm sâu trong tình yêu của Thiên Chúa. Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội từ thời sơ khai cho tới bây giờ, đời sống của các Ki-Tô Hữu qua mỗi thế hệ phải biết kết hợp và hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa thì khi đó đời sống Ki-Tô Hữu mới là một bài ca sống động giữa lòng thế giới nhưng muốn hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa thì phải làm sao? Trong thư gửi các tín hữu thời bấy giờ Thánh Phaolo cũng đã dạy bảo và khuyên răn các tín hữu cách thế để kết hiệp với Thiên Chúa “Đức mến tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 7). Thánh Phaolo đã kết hợp đức tin, đức cậy và đức mến là toàn động lực để kết hiệp với Chúa chứ không chỉ là đức tin và niềm cậy trông thôi nhưng phải có lòng mến vào Thiên Chúa thì mới trọn vẹn trong sự hiệp thông với Ngài. Trong đoạn gửi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca Thánh Phaolo cũng đặc biệt chú ý tới việc kết hợp ba nhân đức tin, cậy, mến để kết hiệp với Thiên Chúa cách hoàn hảo hơn và đó cũng là khí giới lợi hại nhất cho những chiến đấu chống lại sự lầm lạc của ta trong cuộc sống “Chúng ta hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (Tx 5, 8). Ngày hôm nay đây đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng lưu tâm đặc biệt tới sự kiết hiệp giữa con người với Thiên Chúa để đạt tới sự hiệp thông với Thiên Chúa, vì vậy Ngài không quên nhắc nhở các tín hữu và dạy dỗ họ nên trong thông điệp ánh sáng Ngài đã nói “Được đan kết cách tuyệt diệu, đức tin, đức cậy, đức mến là động lực của đời sống Kitô hữu hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa”.

Đức tin, đức cậy, đức mến là động lực hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa, đó chính là niềm tin tưởng sự cậy trông và lòng yêu mến của con người đối với Thiên Chúa, có niềm tin thì có sự trông đợi có sự trông đợi và niềm tin thì sẽ có lòng yêu mến. Đó là cách thế để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa, ước mong rằng mỗi người ai cũng ý thức được tầm quan trọng của việc kết hợp ba nhân đức đối thần hầu cho mọi người ai cũng biết hiệp thông trọn vẹn nơi Thiên Chúa để kêu lên với Thiên Chúa một cách thân thương “Áp-ba, Cha ơi” (Gl 4, 6).




Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016

HÀNH TRÌNH ƠN GỌI

Khoảnh khắc ban đầu bao giờ cũng để lại trong ta nhiều dấu ấn. Cái khởi đầu cho một sự việc có cái gì đó tuyệt vời và khó quên của ta. Khó quên là bởi vì nó cứ đọng mãi trong ta như một khởi điểm cho một nguồn hạnh phúc nào đó mà ta vừa bắt gặp. Cái đầu tiên chạm tay người thương mến, cái đầu tiên run lên khi gặp người mình yêu. Những kiểu đầu tiên ấy mở ra một khung trời mới, khung trời mới đó với ta tuyệt mỹ hơn, đẹp hơn, đáng yêu hơn, hạnh phúc hơn tuy nhiên đối với người khác nó chẳng có gì thay đổi cả. Tình yêu đôi lứa có thể giữ mãi trong tim phút đầu tiên gặp gỡ, thì con, trong tiến trình ơn gọi của mình cũng có giây phút đầu tiên gặp gỡ.

Thánh Gioan có lẽ là người có kinh nghiệm rõ rệt hơn ai hết về phút đầu tiên gặp gỡ ấy. Lần đầu tiên Ngài gặp Chúa Giê Su là khi nghe Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê su là con Thiên Chúa. Không biết điều gì nơi Giê su đã để lại ấn tượng manh mẽ đối với Gioan như vậy, khiến ông không thể nào quên. Mấy chục năm sau khi viết lại Tin Mừng của mình, ông vẫn nhớ đó là khoảng vào giờ thứ mười. Qua kinh nghiệm gặp gỡ đầu tiên của Gioan con cũng nhớ  lại khoảnh khắc gặp gỡ đầu tiên của mình. Ngày ấy con là chú giúp lễ nhà thờ, đang là học sinh lớp sáu. Ngày ấy gia đình con bảo là gắng học hành cho tốt khi lớn lên mà đi tu nghe con, ngày ấy con có biết tu là gì? Con cũng đâu biết cảm nhận được thế nào là tình yêu Giê su? Thế nhưng qua cái đơn sơ của trẻ con, Giê Su đã đưa con vào niềm vui sướng niềm ước ao mà con không thể nào diễn tả bằng lời. Khi ấy Giê Su cho con thấy hình ảnh Linh Mục dâng lễ đẹp biết bao, phẩm phục các Ngài mang đẹp biết chừng nào cho dù khi ấy con chẳng biết ý nghĩa gì về sự huyền nhiệm cao siêu đó. Từ  đứa trẻ con và những suy nghĩ đơn sơ đó Giê Su đã tác động mạnh vào con đường và ý hướng của con. Đối với Gioan ngày đó giờ thứ mười đó đã giúp ông cởi bỏ con người cũ và bắt đầu sống một lý tưởng mới, một con người mới. Giờ thứ mười đối với Gioan không là những con số, không chỉ là thời gian nhưng là món quà hồng phúc, đánh dấu cho một tình yêu mà con tim ông  thổn thức trong chờ. Với con không được mạnh mẽ như Gioan hồi ấy, cũng không mạnh liệt xác tín tình yêu Giê Su được như Ngài. Nhưng qua Gioan cũng phần nào cho con cảm nhận được như có một tình yêu nào đó đang thôi thúc con.

Dòng đời cứ lặng lẽ trôi theo tiến trình của nó, học hết chương trình phổ thông con thi vào đại học. Ngày nhập trường để bước vào cuộc đời sinh viên với biết bao ngỡ ngàng và bỡ ngỡ. Cuộc sống sinh viên với biết bao nhiêu thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt đối với một tân sinh viên vừa mới xa nhà, xa vòng tay gia đình, người thân. Điều đó làm tăng thêm sự thiếu thốn về mặt tình cảm. Để bù đắp cho sự thiếu thốn đó con cũng kiếm cho mình một người bạn gái để yêu, để thương, để nhớ. Khi đó con bỏ quên cái lý tưởng mà lần đầu tiên con gặp, quên đi tình yêu Giê Su mà con đã từng cảm nhận được. Nhưng dẫu con thế nào đi nữa Giê Su vẫn luôn chờ và gọi con về. Ngài gọi con về với lý tưởng với cảm nhận tình yêu Giê Su đó qua các biến cố xảy ra với con. Giây phút hiện tại đây nhờ ơn Chúa con vẫn giữ được ý hướng đó, vẫn cảm nhận được tình yêu đó. Dù là khi mãnh liệt khi mơ hồ và có khi cảm thấy hoài nghi về ơn gọi.

Ngày xưa Chúa gọi cụ Apraham bỏ lại mọi sự mà bước đi, chỉ mang theo ít sản nghiệp và gia đình để lên đường. Nhưng đi đâu, làm gì Thiên Chúa không cho ông  biết. Tương lai phía trước hoàn toàn mù mịt đối với ông. Ông chỉ biết đi theo chỉ dẫn của Chúa, đi đến đâu Chúa mở lối tới đó. Ông bước vào một cuộc phiêu lưu với cuộc đời, mạo hiểm với tương lai. Cuộc phiêu lưu của ông làm nhiều người sợ, đối với con hiện tại cũng mang một tâm trạng và nổi sợ đó. Trong thâu thẳm tâm hồn con cũng phần nào cảm nhận được tiếng gọi ra đi, ra đi tìm hiểu để dấn thân, phục vụ và hy sinh. Nhưng tiếng gọi đó không phát ra thành lời lắm lúc làm cho con sợ, sợ mình sẽ đi về đâu? Mình có ơn gọi không? Hay đi một đoạn đường nào đó thì phát hiện mình không có ơn gọi rồi đứt gánh giữa đường. Hay những cảm nhận về ơn gọi ra đi đó chỉ là sự ngộ nhận thôi. Bao nhiêu câu hỏi và nổi sợ đó vây kín đầu óc và tâm hồn con nhưng những khi nỗi sợ đó ám ảnh con thì Thiên Chúa lại gửi một sự kiện nào đó để thôi thúc con mạnh mẽ hơn, tin tưởng hơn, yêu đời hơn. Có nhiều lúc con cũng mạnh mẽ lắm chứ cũng dám lần mò bước đi như cụ Apraham nhưng khi được gửi Thập Giá đến con lại chùn bước có khi suýt chìm xuống nước như Phero, vì lòng tin bị đứt đoạn. Cứ mỗi lần như vậy con lại cảm nhận được như có bàn tay nào đó đang giang ra đỡ lấy con, nhẹ nhàng kéo con đứng dậy. Mỗi suy nghĩ liều mình bước đi với ơn gọi dâng hiến con cũng cảm nhận được những điều kỳ thú, hạnh phúc. Sự an nguy về tương lai về đường đi giờ đây con dâng lên hết cho Chúa. Con xin phó mặc mọi sự mà Chúa đã và sẽ dẫn con đi đến nơi nào mà Ngài muốn.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Tin tưởng vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa con xin dâng ý hướng, tương lai cuộc đời này cho Thiên Chúa. Người Cha nào mà lại không có định hướng tốt cho con cái, người Cha nào mà lại không muốn con mình có tương lai tốt. Thế giới có hàng tỷ người thì mỗi người là một người con đặc biệt đối với Chúa nên con tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn con đi đến nơi nào mà Ngài thấy tốt cho con, con đường nào mà phần rỗi linh hồn con được tốt hơn và cũng phần nào đó mưu ích được cho các linh hồn.



                   
                                                                                       Người viết

                                                                             Fx:  Phạm Thanh Cảnh


TIẾNG GỌI TÌNH YÊU

Nói đến tình yêu đã từng có ai định nghĩa cho đúng, đã từng có ai diễn tả cho hết tình yêu. Tình yêu là tiếng nói của con tim, là sự hòa quyện của tâm hồn, là sự khao khát như muốn tan chảy vì tình yêu. Nói đến tình yêu biết nói sao cho đúng biết nói sao cho phải, trong lịch sử nhân loại chưa có một vĩ nhân nào định nghĩa cho được tình yêu. Nhưng đã có một người đã dùng chính đời sống và mạng sống của mình để chứng minh cho một tình yêu, chính cuộc đời của con người đó là một định nghĩa đúng đắn về tình yêu. Tình yêu đó mang tên Giê Su.

Tình yêu mang tên Giê Su đó đưa ta vào một thế giới tình yêu hoàn mỹ, tình yêu không nhuốn bụi trần, tình yêu đến nỗi hy sinh chính mạng sống mình để chứng thực. Nhưng mấy ai nhận ra được tình yêu đó, mấy ai cảm nhận được sự hy sinh lớn lao của con người mang tên Giê Su đó. Con người vẫn cứ thường nghĩ Giê Su là một vị Thiên Chúa nên không ai để ý và cảm nhận sự đau thương trống trải của Ngài, vẫn một suy nghĩ Ngài là Thiên Chúa nên Ngài chịu được sự đau thương mà không cần một sự an ủi nào. Trong vườn cây dầu đêm ấy, Giê Su đã cất tiếng gọi tên tình yêu nhưng không ai nhận ra được tiếng gọi đó. "Anh em không thể tỉnh thức nổi với Thầy một giờ sao?" (Mt 26, 40). Tiếng gọi thống thiết biết bao, tiếng gọi mông muốn một sự an ủi cho dù là nhỏ bé nhất đối với một tình yêu bao la trời biển. Nhưng con người vẫn vậy vẫn bình thản ngủ trong thân xác mặc cho tiếng gọi đó đã rõ. Con người cứ muốn lơ đảng đi tiếng gọi đó vì cứ nghĩ Giê Su là Thiên Chúa cơ mà, Ngài chịu được chứ cần gì đến ta an ủi, cần gì đến ta thức cùng. Con người đâu có nghĩ cho Ngài là Ngài cũng là một con người,  biết đau, biết khổ, biết buồn như bao con người khác. Biết bao nhiêu đêm trong cuộc đời ta cũng ở trong vườn cây dầu Chúa đó ta đây, Ngài kề bên đó, Ngài gọi ta đó nhưng ta đâu có nhận ra. Cuộc đời với sự bon chen của kiếp nhân sinh và sự ồn ào của kiếp người ta không đủ tỉnh táo để nhận ra tiếng gọi tình yêu đó.

Giữa dòng chảy của cuộc đời nhiều khi đưa ta vào những sự đau thương của phận người, có lắm lúc ta sầu khổ, ta u mê như cảnh tượng trong vườn dầu nằm xưa, những lúc đó Giê Su lại kêu gọi chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu để âu yếm và nâng đỡ ta dậy và đưa ta ra khỏi thân xác nặng nề này. Nhưng Ngài kề bên mà ta không biết Ngại gọi mà ta không nghe, Ngài nâng ta lên nhưng ta lại cố ghì xuống. Xin cho con luôn biết tĩnh lặng để nhận ra tiếng gọi tình yêu của Chúa, để mỗi ngài đời con là một khúc tri ân cảm tạ dâng lên Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.


CHỨNG NHÂN VÀ THẦY DẠY

“Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”.

Đó là câu nói của Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI muốn nói về việc sống và làm chứng cho tin mừng. Vậy thế nào được gọi là thầy dạy, thế nào là chứng nhân? Vai trò của thầy dạy trong đời sống chứng nhân như thế nào? Xã hội hôm nay với công nghệ thông tin hiện đại ta có thể biết rất nhiều thông tin nhưng những thông tin ấy làm sao để  kiểm chứng đó là đúng sự thật? Phải chăng chỉ cần lời nói là đủ, chỉ cần lời nói là có thể thuyết phục được lòng tin của mọi người? Vậy phải chăng làm một việc cụ thể, làm chứng nhân cho lời nói thì hơn chỉ là nói thôi sao?.
Xã hội con người giữa tương quan với nhau, giữa cha con, anh em, bạn bè xã hội... người ta thường dùng lời nói của mình để an ủi và dạy bảo nhau trong những lúc người kia gặp phải khó khăn gian nan khốn khó. Khi ta gặp phải một khó khăn nào đó mà có người cùng tâm sự, dạy bảo, an ủi động viên ta thì hầu như mọi khúc mắc trong tâm hồn ta được giải tỏa và khi đó mọi thứ xung quanh ta như được đổi mới từ cảnh vật cho đến trong cõi lòng của ta. Và nếu khi ta buồn có ai đó an ủi, dạy bảo ta và làm cho ta một việc cụ thể nào đó thì chắc ta sẽ khắc ghi công ơn của người đó nhiều lắm, không chỉ những biết ơn ta còn thấy sự chân thành của người đó, qua hành động người đó làm cho ta chứ không chỉ dừng lại ở lời nói. Thế nhưng con người trong xã hội hôm nay đây với chủ trương sống hưởng thụ sống vì hình thức, họ không còn quan tâm đến những cái cốt yếu căn bản của đời sống con người nữa. Họ chỉ biết nói mà không làm, dẫu rằng lời nói rất cần thiết để ủi và làm tiền đề cho sự tin tưởng của người khác, tuy nhiên chỉ nói thôi thì không thể thuyết phục người ta tin tưởng hoàn toàn vào lời nói đó được. Ngày nay các nhà lãnh đạo cũng đưa ra nhiều quyết tâm nơi cửa miệng, họ nói sẽ quyết tâm làm cho đời sống của người dân ngày càng cải thiện, đời sống an sinh được tốt lành, hạn chế tham ô tham nhũng, phòng chóng nạn cướp giật bóc lột... những quyết tâm nơi cửa miệng của họ làm cho người dân hầu như không còn tin tưởng vào tài năng lãnh đạo của họ nữa vì họ chỉ nói thôi mà không đi đến một công việc thiết thực để chứng thực cho lời nói của họ, họ chỉ biết đưa ra thuyết nhưng không biết chứng minh, họ chỉ biết đánh bóng bản thân mình qua lời nói nhưng không biết dùng hành động để làm sáng. Trong đời sống hằng ngày của người Kitô Hữu hôm nay cũng vậy có một số người đến với Chúa và Giáo Hội chỉ là một hình thức, họ đi đến nhà thờ chỉ vì sợ người khác dị nghị, họ thích nói về Chúa, dạy về Chúa cho người khác hơn là sống để làm chứng cho giá trị tin mừng. Nếu một người tín hữu biết sống theo lời Chúa, đem lời Chúa ra thực hành thì đáng giá biết là chừng nào, một người Linh Mục giảng về lời Chúa mà cùng thực hành lời Chúa, đem thân mình ra làm chứng nhân cho mọi lời nói thì lời nói ấy như một bản nhạc sống động thể hiện qua những hành động của người Linh Mục. Nhưng Ngài chỉ giảng thôi mà không sống chứng nhân cho giá trị tin mừng ấy thì lời nói đó cũng chỉ như gió thoảng qua đối với người nghe. Nhìn lại lịch sử Giáo Hội ta thấy các Thánh Tông đồ ngày xưa đã nhiệt thành rao truyền lời Chúa và ra đi làm chứng cho những lời rao truyền ấy, các vị là những chứng nhân sống động cho giá trị Tin Mừng của Chúa Kitô các vị đã không mệt mỏi làm chứng, để mọi lời nói của các Ngài luôn tồn tại mãi qua các thế hệ, ý thức với việc sống chứng nhân Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã khuyên các tín hữu thời bấy giờ và ngày hôm nay đây lời nói ấy vẫn còn tính thời sự với con người trong xã hội hôm nay “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Là một người sống chứng nhân Thánh nhân đã không quên để lại cho thế hệ mai sau những bài học quý báu qua đời sống chứng nhân của mình. Đã có biết bao nhiêu người qua bao thế hệ cố gắng định nghĩa cho được tình yêu theo cảm nhận của riêng mình nhưng mấy ai định nghĩa hay là thực thi tình yêu đó một cách đúng đắn cho thế hệ mai sau? Có một người đã âm thầm lặng lẽ rao truyền tình yêu, dãy dỗ về tình yêu, loan báo về một tình yêu không tỳ ố không vết nhơ và chính con người ấy đã dùng chính cả cuộc đời mình làm bằng chứng sống động cho tình yêu, hành động của con người ấy là một định nghĩa đúng đắn về tình yêu, người đó chính là Giê-Su suốt cuộc đời đã làm một chứng nhân sống động cho lời loan truyền của Thiên Chúa. Chính chúa Giê-Su là gương mẫu cho mọi chứng nhân Ngài đã tự hạ làm kiếp phàm nhân để chung chia cảnh đời cơ cực với con người, Ngài đã yêu thương không chỉ dừng lại ở lời hứa qua miệng các ngôn sứ mà Ngài đã thể hiện tình yêu đó với loài người một cách sống động qua việc hiến dâng tất cả chỉ vì tình yêu.

Chứng nhân và thầy dạy luôn đi đôi với nhau, chứng nhân thì cũng phải cần thầy dạy, mà thầy dạy thì cũng cần chứng nhân nhưng chứng nhân thì cần thiết và quan trọng hơn thầy dạy, xin Chúa ban ơn cho chúng con luôn ý thức được điều đó để mỗi ngày trong đời sống chúng con biết thực hành những lời Chúa dạy hầu cho mọi người thấy tình yêu Chúa luôn tồn tại mãi qua việc làm của chúng con.

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2016

Thư Gửi Chị

                                                               Kinh Nhuận ngày 22 tháng 08 năm 2016

Mùa hè năm đó chị nói chị đi tu nhé em không ngạc nhiên vì từ lâu em đã biết lí tưởng ấy của chị nhưng vẫn có chút hơi ngỡ ngàng vì chị quyết định rất nhanh và táo bạo, mới nhận xong bằng tốt nghiệp, mới ngày nào đó chị là một sinh viên năng động trong các hoạt động của sinh viên công giáo, mới ngày nào đó chị, em còn đùa cợt chơi bời thậm chí có nhậu nữa...hihi...thế mà hôm nay chị nói với vẻ mặt đầy nghiêm túc nhưng không căng thẳng, vẻ mặt toát lên sự khát khao mãnh liệt với con đường đó và ánh mắt nói lên sự bình an với quyết định đó.
Kể từ ngày ấy đến bây giờ cũng được một năm rồi, một năm đó với biết bao nhiêu sống gió, bao nhiêu trống vắng và mịt mờ trong tâm hồn và cũng lắm chông gai với con đường chị bước, cũng có những lúc một mình chị bơi giữa dòng nước chảy xiết những lúc đó hầu như chị không thấy “người yêu” chị đâu? Những người thân của chị cũng không thể làm gì hơn là dâng lên Chúa những lời nguyện xin cho chị và động viên chị qua những lời nói phát ra từ chính cõi lòng của tình yêu. Một năm trôi qua nhanh quá mới đó mà đã đến lúc Chúa đưa chị đi ra giữa dòng đời thoát khỏi sự an toàn của bản thân, chấp nhận Thánh Giá để được thông phần đau khổ với “người yêu” chị. Đã đến lúc Chúa đưa chị đi và Ngài cũng nói với chị như năm nào Chúa nói với các môn đệ khi người sai họ đi “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” (Lc 10, 3). Năm nào đó, Ngài thốt lên lời thân thuơng với các môn đệ dặn và dò họ từng li từng tí vì Ngài biết rằng giữa thế gian có nhiều cặm bẫy đang giăng ra chờ đón họ như Thánh Phêrô tông đồ  đã nói “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như  sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (Pr 5, 8). Hôm nay đây những lời thân thương đó chắc Chúa cũng nói với chị rồi, những lời phát ra từ tận con tim yêu mến của Ngài, với những thao thức, trăn trở vì những đứa con mỏng dòn yếu đuối hay sa ngã.
Dẫu biết rằng thế gian nhiều cạm bẫy đó, cũng lắm chông gai đó nhưng chị à, chị biết và tất cả chúng ta đều biết rằng Chúa sẽ không bao giờ đứng nhìn chị lạc lối, nhìn chị chìm xuống nước mà không đưa cánh tay từ ái của Ngài ra kéo chị lên. Có Đức Giám Mục kia cũng đã nói “Tình yêu mà không có Thánh Giá là vô vị” phải chăng lời nói đó hôm nay đây vẫn còn tính thời sự với chị, đúng vậy chị à tình yêu thì phải có sống gió và chông gai thì tình yêu mới bền vững được. Hôm nay chị đi không để làm một việc gì đó vĩ đại để lại tiếng vang cho đời nhưng hôm nay chị đi vì một tình yêu vĩ đại mà tình yêu đó chỉ có con tim và tâm hồn chị mới thấu hiểu được. Chúc chị ra đi làm tròn công tác tông đồ mà Chúa và Giáo Hội đã giao phó cho chị.

Em trai kính gửi chị

Fx: Phạm Thanh Cảnh

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

LINH THAO

Giữa dòng đời hối hả với những  bon chen để mưu sinh và những bổn phận trách nhiệm của phận người, con được mời gọi để nhìn lại quảng đường đã qua, nhìn lại những ngày vui, buồn để tiếp  tục tri ân cảm tạ Cha và thay đổi lại những thiếu sót đã qua. Con được mời gọi để lên đồi với Cha, Cha nhìn con, con nhìn Cha với tất cả sự chân thành và tình yêu thương của Cha dành cho con và những yêu thương bé nhỏ con có dành cho Cha.

Ngày đó chiếc xe lăn bánh đưa con vào đan viện Thiên An Huế, địa điểm mà Cha và con đã hẹn nhau từ trước. Với một con người thích náo nhiệt và một tâm hồn đang bị xáo trộn bởi những bộn bề của cuộc sống, con hết sức ngỡ ngàng trước sự tĩnh lặng ở nơi đây. Ôi đúng là nơi lý tưởng để con và Cha hàn huyên tâm sự để nói chuyện với nhau về những gì con đã và đang trải qua. Là một nơi lý tưởng để con nhìn lại mình, nhìn lại những thiếu sót nhìn lại những ngày qua tương quan giữa con với Cha như thế nào? Ngồi đối diện với Cha mà con không dám nhìn thẳng vì con cảm thấy hổ thẹn với lòng mình, giữa nhưng ngày qua trong cuộc sống đã được mấy giờ con nhớ đến Cha được mấy giờ con ngồi nói chuyện với Cha được mấy giờ nhìn lại những tâm tư và thao thức của Cha đối với con. Con lí luận để an ủi lòng mình tránh khỏi sự ngại ngùng đến trong tâm hồn. Do những bon chen của cuộc sống và với biết bao nhiêu bổn phận của cuộc sống nên con mới không có thời gian quan tâm đến Cha, do những thứ yếu của vật chất và những sự đòi hỏi ngoài thân xác nên con mải miết trôi theo con nước ấy chứ đâu phải con quên Cha. Ôi càng tự lí luận bao nhiêu thì con lại càng thấy hổ thẹn đến như vậy. Con đang loay hoay tìm lời giải thích để ngụy biện cho mình thì Cha ôn tồn bảo con. Con ơi, con đang dùng lí trí để yêu Cha sao? con đến với Cha mà lòng đầy kiêu hãnh, lòng con đã đầy làm sao để Cha đổ tiếp tình yêu thương vào cho con được nữa đây? Đâu phải những thứ ngoài thân xác đó ngăn cản con đến với Cha, hãy nhìn lại trong cõi tâm hồn và con tim của mình Cha được ở đâu trong vị trí của con tim con? Lúc ấy con nhớ lại lời của Thánh Phaolo tông đồ  “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Ôi lời Thánh Phaolo làm con xao xuyến biết bao, phải chăng từng ngày trong đời sống Cha đã luôn nói với con không có gì có thể tách được tình yêu của Cha dành cho con sao. Ôi tâm hồn chai đã và đầy những bụi trần, con đã tự tách mình ra khỏi tình yêu của Cha bằng những lí luận không có con tim, đến đây con cảm thấy mình tội lỗi và bạc nhược với tình yêu của Cha biết chừng nào, không những bạc nhược mà con còn dùng những gì là của thế gian để làm mờ tình yêu đó trong mình.

Đang trong lúc cảm thấy mình bất toàn và tội lỗi Cha đã cho con nhìn thấy và nhớ lại ánh mắt của Cha dành cho Thánh Phero tồng đồ. Ánh mắt thống thiết tình yêu biết chừng nào, ánh mắt ấy không những đã nhìn vào cặp mắt của Phero nhưng đã nhìn thấu đến con tim và tâm hồn Phero, làm cho Phero cảm nếm được tình yêu cao cả mà không biết phải dùng ngôn ngữ nào để nói thành lời. Phero đã khóc, khóc cho thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình, khóc vì tình yêu bao la mà người Cha nhân hậu đã dành cho mình với tất cả những gì Ngài có. Hôm đó con cũng cảm nhận được Cha đang nhìn con với ánh mắt Cha đã nhìn Phero ngày đó,  con cũng đã khóc như Phero khóc cho thân phận mình khóc vì tình yêu Cha quá bao la đến nỗi con không biết lấy gì để đáp cho cân và nói sao chao vừa. Đến đây Cha cho con thấy tình yêu của Cha rõ nét hơn qua hình ảnh, sự tận tình phục vụ lo lắng của các thầy ở Đan Viện Thiên An, sự tận tình chỉ bảo của các thầy, các sour đồng hành. Ôi tình yêu của Cha bao la biết chừng nào, Cha đã ghi sâu hình ảnh của các thầy ở Đan Viện, hình ảnh của các thầy, các sour đồng hành trong tim con để con luôn được cảm nếm tình yêu thương bao lao của Cha.

Hình ảnh ánh mắt Cha nhìn Phero, hình ảnh sự tận tình phục vụ của các thầy, các sour đã nằm trong tim con, con cảm ơn Cha đã luôn yêu thương và dõi bước theo con, con cám ơn Cha đã đưa con lên đồi với Cha dù tâm hồn con đang trong tình trạng tội lỗi. Con xin chân thành cảm ơn quý thầy ở đan viện, quý thầy quý sour đồng hành đã tận tình yêu thương và phục vụ con để cho con nhận ra tình yêu thương bao la của Cha nơi quý thầy và quý sour. Con xin tri ân và ngợi khen Cha, xin Cha luôn đồng hành và dõi bước cùng con để con luôn được ở lại trong tình yêu của Cha như Cha đã nói “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9).